Sầu riêng có thể được nhân giống bằng hột, tháp mắt, tháp cành, tháp đọt và chiết. Cây trồng bằng trái và năng suất không được ổn định, cây rất lâu cho trái (mất từ 7-12 năm) và có chiều hướng phát triển khung tán rất to gây trở ngại cho việc chăm sóc. Do đó phương pháp nhân giống vô tính thường được áp dụng rộng rãi hơn. Hiện nay ở ĐBSCL sầu riêng thường được trồng bằng cây tháp và chiết.
I. DINH DƯỠNG VÀ SỬ DỤNG:
Cơm trái sầu riêng chiếm 20-35% trọng lượng trái, hột chiếm 5-15%, nó chiếm 55-56%. Cơm trái và hột chứa nhiều chất dinh dưỡng, giàu carbohydrate, protein, chất béo, khoáng và vitamin. Mùi thơm của sầu riêng do các thiols hoặc thioethers và sulfides.
Trong 100g sầu riêng ăn được chứa 66,8g nước, 2,5g protein, 2,5g chất béo, 1,4g chất sợi, 0,8g tro, 28,3g carbohydrate, 0,9mg sắt, 601 mg Potassium, 0,27 mg thiamine, 1 mg muối natri, 0,29 mg riboflavin, 1,2 mg niacin, 20 mg calcium, 63 mg phosphorus, 57 mg Vitamin C, 10 IU vitamin A và 520 KJ năng lượng.
II. GIỐNG
Hiện nay, Thái Lan và Mã Lai đã chọn được nhiều giống sầu riêng tốt. Các giống sầu riêng nổi tiếng của Thái Lan gồm có Mong Thong No 1, Khan Yao, Chanee, Kradum Thong, Luang và Kob. Các giống của Mã Lai là D2 (Dato Nina), D7, D10 (Durian Hijau) D24, D98 (Ka toi), D99, D114 và D117 (Gombak). Các giống của Indonesia gồm Sunan Sukun, Hepe, Mas, Sitokong và Petruk.
Ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có trồng nhiều giống sầu riêng, trong đó có một số giống khá phổ biến hiện nay như :
– Sầu riêng hổ qua xanh: vỏ trái vẫn còn màu xanh khi chín, trái hơi dài, chóp trái nhọn, có khía rõ, gai nhỏ, cuống trái ngắn nhỏ. Cây sai trái, trái nhỏ nặng trung bình 2-3 kg. Cơm mỏng, phẩm chất khá. Trồng nhiều ở Tiền Giang.
– Sầu riêng khổ qua vàng: trái có màu vàng nhạt khi còn non, khi chín vỏ trái có màu vàng. Trọng lượng trái và phẩm chất tương tự giống khổ qua xanh. Ít được ưa chuộng so với giống khổ qua xanh vì năng suất thấp hơn.
– Sầu riêng khổ qua hột lép: trái màu xanh vàng nhạt, gai to, thưa, chóp trái phẳng, cuống trái dài, to. Năng suất khá (100-200 trái/cây/năm). Trái nặng 1,5-3 kg, dầy cơm, phẩm chất ngon, tỷ lệ hột lép trong trái khá cao. Được biết nhiều ở Tiền Giang.
– Sầu riêng sữa hột lép: trái tròn, vỏ trái màu vàng nâu khi chín, cơm dầy màu vàng, hột lép nhiều, ít xơ, ngọt, béo, thơm. Năng suất trung bình. Trái nặng 2-3 kg, có thể thu hoạch trước trên cây. Đây là giống nổi tiếng ở vùng Chợ Lách (Bến Tre).
Ngoài ra, còn có một số ít giống phổ biến khác như: sầu riêng Bí Rợ, Vàm Xẻo, Sáp,… và một số giống sầu riêng nhập từ Thái Lan, Mã Lai đang được trồng thử nghiệm ở nhiều nơi.
Về tiềm năng năng suất, trọng lượng trái thương phẩm thay đổi từ 1,5-4 kg, cá biệt cũng có trái nặng đến 8kg.
III. KỸ THUẬT CANH TÁC
3.1. Nhân giống
Sầu riêng có thể được nhân giống bằng hột, tháp mắt, tháp cành, tháp đọt và chiết. Cây trồng bằng trái và năng suất không được ổn định, cây rất lâu cho trái (mất từ 7-12 năm) và có chiều hướng phát triển khung tán rất to gây trở ngại cho việc chăm sóc. Do đó phương pháp nhân giống vô tính thường được áp dụng rộng rãi hơn. Hiện nay ở ĐBSCL sầu riêng thường được trồng bằng cây tháp và chiết.
3.1.1. Phương pháp tháp mắt
Chuẩn bị gốc tháp
– Hột thường được chọn từ những trái chín đầy đủ. Sau khi chà sạch cơm, loại bỏ những hột xấu lép rửa sạch, xử lý thuốc sát khuẩn trước khi đem ươm. Hột mất sức nẩy mầm nhanh nên cần gieo ngay. Đem trải đều hột kề nhau trên đất ẩm, phía trên phủ tro trấu, tưới nước giữ ẩm hàng ngày. Sau khi hột nẩy mầm (8-17 ngày) đem cấy vào liếp.
– Đất liếp cấy hột sầu riêng phải cuốc sâu 30 cm để rễ cái phát triển tốt. Cấy hột với khoảng cách 30 x 30 cm. Đặt phần tễ hột úp xuống dưới, 1/2 phần đáy hột hướng lên trên. Khi cấy hột xong tủ cỏ lại và tưới nước giữ ẩm hàng ngày. Rải thuốc trị kiến, xịt thuốc phòng trừ sâu bệnh thường xuyên và dùng phân N-P-K tưới để cây con phát triển tốt. Có thể dùng Derosal, Carbendazim, Bavistime, Appencab để phòng trị chết cây con. Cây con phát triển có 1-3 thân, chỉ cần giữ lại 1 thân chính khỏe mạnh. Nên che mát ánh sáng 50% để cây ít bị cháy lá và chậm tăng trưởng (do quang phân hóa).
– Có thể ươm hột trong bầu đất. Đặt hột ở 1/3 chiều cao bầu, thêm đất trộn tro trấu vào đầy dần bầu theo sự phát triển của rễ hột.
– Cây con sử dụng làm gốc tháp phải có tuổi thích hợp tùy theo phương pháp tháp. Gốc khoảng 3-5 tháng tuổi được dùng làm gốc tháp cành, tháp đọt; gốc 1,5-3 năm tuổi dùng tháp mắt. Lưu ý khi dùng gốc tháp non (tháp cành, tháp đọt) phải chăn sóc thật kỹ khi đem trồng vì cây dễ bị chết do rễ phát triển kém.
Mùa vụ tháp
– Đối với sầu riêng, tiến hành tháp vào khoảng tháng 6-9 dl hàng năm là tốt nhất vì trong những tháng này có nhiệt độ và ẩm độ thích hợp nên tháp cây rất dễ dính. Sầu riêng cũng được tháp trong mùa nắng, có thể cắt ngọn gốc tháp trước, bứng vô bầu đem đặt vào chỗ thoáng mát để tiến hành tháp. Tỷ lệ tháp dính so với tháp trong mùa mưa kém hơn.
Cách làm
– Có nhiều kiểu tháp, nhưng kiểu tháp theo chữ U xuôi là phổ biến nhất. Mở miệng tháp trên gốc tháp cách mặt đất khoảng 25-30 cm, nhánh mũi dao làm trầy phần gỗ bên trong. Miệng tháp dài khoảng 2-2,5 cm, rộng khoảng 1-1,5 cm. Dùng dao rọc một đường chia lớp vỏ đậy miệng tháp làm 2 phần lớn của vỏ đậy một lỗ nhỏ tròn để khi đặt mắt tháp vào không bị cấn dập.
– Mắt tháp (còn gọi là bo tháp) được lấy từ những mầm vừa nhú lên từ nách lá (nông dân thường gọi là hột gạo) trên cành. Cắt cuống lá trước 3-4 ngày trước khi lấy bo tháp. Bo tháp được lấy theo kích thước hơi nhỏ hơn miệng tháp. Luồn bo tháp vào miệng tháp đậy vỏ miệng tháp lại sao cho mầm tháp nhú ra ngoài từ nơi khoét lỗ. Dùng một đoạn lá dừa dài khoảng 5 cm, rộng 2 cm có khoét lỗ ở giữa đậy lên kín miệng tháp, dùng dây thun buộc lại. Đầu trên lá dừa phải buộc chặt để nước không thấm vào trong, phía ngoài chỗ tháp được quấn dây thu vừa phải làm cấn giập mầm tháp. Nếu phải lấy mắt tháp ở nơi xa, sau khi cắt cành nhúng nước giữ ẩm ở gốc cành rồi dùng lá chuối bó lại. Không được nhúng ướt cả cành vì dễ làm hư mắt tháp. Mắt tháp sầu riêng có thể giữ được tốt trong vòng 1 ngày.
– Sau khi tháp 20 ngày thì mở dật thun, nếu tháp dính thì ngày thứ 25 có thể cắt đọt gốc tháp cho mầm phát triển. Khoảng 4-6 tháng sau khi cắt đọt , nếu cây con phát triển tốt thì có thể đem trồng.
3.1.2. Phương pháp tháp cành
Có hai phương pháp tháp cành là tháp nêm (ghép nêm) và tháp ngọn (ghép đọt)
* Tháp nêm:
– Chuẩn bị gốc tháp
– Sử dụng gốc tháp khoảng 3-5 tháng tuổi, phần thân thật (phía trên trục hạ diệp) có đường kính 3-4 m.
Chọn cành tháp
– Chọn cành tháp còn non, lá màu xanh vàng nhạt, đường kính thân cành khoảng 3-4 mm, dài 20-30 cm. Có thể chọn cành non mọc trên các cành chính hay trên thân chính.
Chuẩn bị giàn tháp
– Khi tháp các cành non mọc từ cành chính trên cao thì cần làm giàn treo bầu gốc tháp. Cắm 2 cọc tràm hay tre ở gốc cành chính (sát gốc thân) và phía ngoài ngọn cành, sau đó buộc thắt dài 1 sào tre (hay tràm) nối 2 đầu cọc, song song sát với cành chính buộc các bầu gốc tháp vào tương ứng với các cành tháp.
Cách làm
– Dùng dao cắt ngang thân gốc tháp ở vị trí cách trên trục hạ diệp (phần thân to mềm, mọc ra đầu tiên từ hột) 2-3 cm. Chỗ cắt cách mặt đất 10-15 cm tùy theo trục hạ diệp dài hay ngắn. Dùng lưỡi lam vuốt mỏng dần 2 bên ngọn gốc tháp còn lại thành hình lưỡi gà mỏng, dài khoảng 2cm.
– Dùng dây nylon buộc treo gốc tháp vào giàn ở vị trí thích hợp với cành tháp.
– Dùng lưỡi lam cắt sâu vào giữa lõi cành tháp theo chiều xiên về phía ngọn cành, dài khoảng 2-2,5 cm để tạo miệng tháp. Luồn phần lưỡi gà của gốc tháp vào miệng tháp. Dùng vải nylon (rộng 1 cm, dài 50 cm) buộc miệng tháp lại từ dưới lên trên theo hình mái ngói để tránh đọng nước.
– Tưới giữ ẩm thường xuyên bầu gốc tháp khoảng một tháng sau khi tháp có thể cắt đem bầu cây tháp xuống.
– Phương pháp này có nhược điểm là dễ gãy nơi vết tháp nếu trồng trong vùng có gió mạnh (Duyên Hải, Sông Bé,…) dễ chết nếu trồng trong mùa mưa do vết tháp dễ nhiễm vi khuẩn.
* Tháp ngọn:
– Tháp ngọn sử dụng gốc tháp 2-4 tháng tuổi và phải chuẩn bị cành tháp 10-20 ngày trước khi tháp (khấc, bón P, K). Đọt tháp chỉ cần một đoạn có mang lá non (phương pháp Thái Lan). Dùng dao bén hay lưỡi lam cắt ngang gốc tháp ở độ cao thích hợp sau đó chẻ ở vết cắt sâu 1,5 cm. Dùng dao bén vuốt đọt tháp thành dạng mũi nêm và đặt vào vết chẻ trên gốc tháp. Chú ý sao cho tượng tầng gốc tháp và ngọn tháp tiếp xúc với nhau. Sau đó dùng dây cao su quấn chặt chỗ tháp theo kiểu mái ngói. Phương pháp này có ưu điểm là không bị gẫy nơi vết tháp khi trồng sau này.
3.1.3. Phương pháp chiết cành
– Mùa chiết
– Từ tháng 3-10 dl (tốt nhất là tháng 3-4 dl).
Chọn cành chiết
Chọn cành mọc xiên ngoài tán khỏe mạnh, dài khoảng 1 mét, đường kính 5-10 mm, lá màu xanh vàng nhạt (mới chuyển từ non qua trưởng thành), lá đọt chưa nở. Nếu chọn cành có lá màu xanh đậm thì chiết khó ra rễ. Các nhánh chèo (nhánh thứ cấp) trên cành chiết cũng có lá non chưa nở ra.
Cách làm
– Khoanh một đoạn vỏ dài 4-8 cm (tùy theo đường kính cành chiết). Chiều dài từ chỗ khoanh vỏ đến ngọn cành dài 50-70 cm. Khoanh theo kiểu tướt vỏ. Sau khi lột vỏ, dùng vải sạch lau tượng tầng libe (rất mỏng). Tránh cọ xát mạnh làm tổn thương lỏi cây dễ gây thối cành.
– Sau khi khoanh vỏ để ráo nhựa khoảng 2-3 ngày. Tiến hành bó bầu bằng rơm trộn bùn sông (nên dùng rơm đã giặt sạch phơi khô và bùn không có phèn). Có thể sử dụng thuốc kích thích ra rễ của Đại học Cần Thơ (1.000 ppm NAA) lên phía trên vết khoanh trước khi bó bầu. Vài ngày sau, khi thấy rơm bó ngoài bầu chiết khô thì tiến hành bó nylon và che lá chuối khô phía trên bầu chiết (hướng nắng phía Tây để hạn chế ánh sáng) giúp rễ mọc ra. Tùy giống và mùa vụ, khoảng từ 35-40 ngày (nếu có sử dụng thuốc kích thích ra rễ) đến 45-60 sau thì bầu chiết ra rễ. Tiến hành cắt cành giâm vào bầu đất, che mát, được 1 tuần thì đưa dần ra nắng. Khoảng 1-2 tháng sau thì đem trồng.
– Nếu chiết vào giai đoạn mưa nhiều (từ tháng 8 dl trở đi) nên dùng rễ lục bình bóc bầu để tránh quá ẩm gây thối. Các điểm cần lưu ý khi chiết cành.
– Chọn cành đúng tuổi (quan trọng)
– Bầu chiết bị thối do quá ẩm hay ngộ độc (do rơm tươi, rễ lục bình không được giặt sạch,…).
– Kiến làm tổ do che lá chuối khô gây hư hại cành chiết.
– Khả năng ra rễ còn tùy thuộc vào giống.
3.2. Chuẩn bị đất trồng
– Có thể trồng liếp đơn hay liếp đôi. Nếu bố trí liếp đơn trồng 1 hàng, thì liếp rộng 5-6 m, mương rộng 2-3 m. Nếu liếp đôi trồng 2 hàng. Thì liếp rộng 10-12 m, mương rộng 4-5 m. Lưu ý xẻ thêm mương phèn trên liếp để thoát nước nhanh trong mùa mưa. Ở vùng cao, sầu riêng được trồng trên đất bằng thường có tuổi thọ cao hơn.
– Cần trồng cây chắn gió (tre, lục bình,…) chung quanh vườn để chắn bốt gió, giảm việc rụng hoa, trái, tổn thương lá,…Trong những năm đầu cho trái nếu cây sai trái thì cần chống đỡ để tránh gãy nhánh.
– Ở ĐBSCL nên trồng trên mô và bồi liếp tăng dần chiều dầy tầng canh tác, tránh úng rễ do nước ngập hàng năm. Trộn mỗi mô đất với tro trấu, phân chuồng hoai mục và khoảng 0,5 kg super lân. Mô rộng khoảng 1-2 m, cao 0,3-0,5 m tùy địa hình.
3.3. Trồng vă chăm sóc
3.3.1. Khoảng cách trồng
– Khoảng cách cây cần thay đổi tùy loại cây giống. Khoảng cách trồng trung bình 8 x 8 m. Trồng một hàng trên liếp đơn hay hai hàng theo hình nanh sấu trên liếp đôi.
3.3.2. Trồng vă chăm sóc cây con
– Loại bỏ vật liệu làm bầu, đặt cây vào lỗ đào trên mô, lấp đất vừa quá mặt bầu cây con, ém đất xung quanh gốc. Cắm cục giữ cây, tưới đẫm nước. Dùng rơm hay cỏ khô đậy mô giữ ẩm. Cần che mát cây con trong thời kỳ đầu. Khi cây phát triển qua 1 mùa khô thì loại bỏ dần vật liệu che mát.
– Nếu bứng bầu đất thì sau khi bứng nên để bầu cây con nằm ngang trên mặt đất ở nơi thoáng mát vài ngày mới trồng vào đất.
– Che nắng hướng Tây trong 12 tháng đầu, nhất là vào các tháng nắng chiều, vì cây phát triển rất chậm trong điều kiện nắng gắt.
HIỆN TƯỢNG CHẾT CÂY CON SAU KHI TRỒNG
Cây sầu riêng con khi đem trồng thường có tỷ lệ chết cao. Hiện tượng này có thể do một hay nhiều nguyên nhân sau:
– Thiếu nước tưới hoặc tưới không đủ làm cây bị hốc. Trồng cây không che mát ở giai đoạn đầu. Đất không thoát nước tốt.
– Đất sét nặng làm rễ cây con kém phát triển, suy yếu dần. Đất nhiễm phèn, mặn, đất mới còn nhiều chất hữu cơ chưa hoai mục gây ngộ độc.
– Cây con có hệ thống rễ nhánh ít, nhất là cây chiết nhánh hoặc cấy tháp đọt, tháp cành. Rễ cây con tương đối giòn, dễ gãy khi vận chuyển bị sốc (đường xe). Cây con không được giữ chắc chắn sau khi trồng, bị gió thường xuyên sẽ làm lung lay rễ, tược tháp.
– Cây con bị thối rễ do nấm bệnh hoặc bị bệnh thán thư nặng (đốm lá) không hồi phục được.
– Bón quá nhiều phân nhất là phân đạm.
– Chọn đất tốt, nhẹ. Phần đất dưới đáy hố trồng cần làm tơi xốp. Nên bón lót phân lân, tro trấu.
– Cây con đem trồng cần có nhiều rễ nhánh.
– Nếu đường xa nên vận chuyển bằng ghe và nên giảm cây 2-3 tháng để dưỡng trước khi trồng.
– Tưới đủ nước
– Cây con cần được che mát tránh ánh nắng trực tiếp trong năm đầu tiên sau khi trồng. Buộc giữ cây chắc chắn.
– Tránh bón quá nhiều phân, bón phân chia làm nhiều lần. Nên pha phân để tưới trong giai đoạn đầu.
– Phòng trị các loại nấm gây hại ở giai đoạn liếp ương (đối với cây tháp) như :Sclerotium, Rhizoctonia, Pythium, Fusarium và thán thư (colletotricum).
3.3.3. Bồi mô, liếp và xới gốc
– Trong 2 năm đầu tiên, mỗi năm bồi đất vào chân mô từ năm thứ 3 thì bồi đất toàn liếp. Mỗi năm bồi một lần vào đầu mùa khô để nâng dần độ cao của liếp. Hàng năm xới đất xung quanh gốc sâu 3-5 cm có thể kết hợp với bón phân.
3.3.4. Tưới nước
– Cây con không chịu được khô hạn, nên cần tưới nước thường xuyên, nhất là trong mùa khô. Khi cây đã trưởng thành yêu cầu về nước quan trọng trong giai đoạn ra hoa trái, tuy nhiên có giống lại bị rụng hoa khi tưới thường xuyên. Cần thoát nước kịp thời trong mùa mưa, tránh đất ẩm ướt vì dễ tạo điều kiện cho nấm gây bệnh thối rễ phát triển.
3.3.5. Xen canh, che phủ đất
– Vì sầu riêng được trồng với khoảng cách rộng, đo đó cần trồng xen để tăng thu nhập khi cây còn nhỏ. Có thể trồng chuối để tạo bóng mát cho cây sầu riêng con. Một số cây ăn trái có thể trồng xen với sầu riêng là nhãn, chôm chôm, măng cụt, bòn bon. Hoa màu ngắn ngày cũng có thể trồng được vài mùa. Lưu ý tránh trồng xen những cây dễ bị nấm Phytophthora tấn công như đu đủ, dừa, ca cao, quít, chanh, bưởi,…vì dễ làm lây lan bệnh cho sầu riêng. Xung quanh gốc sầu riêng nên giữ sạch cỏ để tránh tăng ẩm độ, hạn chế bệnh thối gốc chảy mủ. Trong mùa khô cần che đất chung quanh gốc, nhưng tránh phủ kín phần gốc thân.
3.3.6. Bón phân
Lượng phân bón cho mỗi cây qua các năm tuổi được đề nghị như sau:
– Năm thứ 1: Bón cho mỗi cây từ 200-300g urê, 500 g super lân và 50g KCL, chia khoảng 6 lần bón.
– Năm thứ 2-3: mỗi năm bón cho cây 400-500g urê, 400-500g super lân và 100-200g KCL chia làm 4-6 lần bón.
– Năm cho trái (năm thứ 4-5): bón cho mỗi cây khoảng 0,5-1 kg urê, N: 0,5-1 kg phân hỗn hợp NPK và 0,5 kg super. Bón chia ra làm 2 lần:
Lần 1: sau khi thu hoạch vụ trước, bón toàn bộ lượng super lân, 1/2 lượng urê và 1/2 lượng phân hỗn hợp NPK.
Lần 2: ở giai đoạn trước khi ra hoa 15-30 ngày, bón 1/2 lượng urê và 1/2 lượng phân hỗn hợp NPK.
– Năm cho trái ổn định: tăng dần lượng phân bón từ 3-5 kg urê-NPK-super lân (tỷ lệ 1:2:1) cho mỗi cây hàng năm và cũng chia làm 2 lần bón như trên.
– Việc sử dụng phân KCL được cho là làm trái bị suợng, do đó khi cung cấp kali tốt nhất là dùng dạng sulfat kali (K2SO4) hoặc phân hỗn hợp NPK. Cần chú ý là một số phân Ammophosco (20-20-15) của Việt Nam điều chế sử dụng KCL là nguồn cung cấp K cũng làm trái sầu riêng bị sượng (do CL -). Bón tro bếp, xác mắm, đất nhiễm mnặn cũng cho hậu quả sượng kéo dài.
– Cần chú ý bón thêm khoảng 20-30 kg phân chuồng hoai mục hàng năm cho cây. Trong năm thứ 1 và 2 nên pha phân để tưới. Từ năm thứ 3 trở đi thì xới đất chung quanh gốc để bón. Việc sử dụng thêm thuốc dưỡng cây có thể áp dụng trong các giai đoạn sau thu hoạch và mang trái.
3.3.7. Xử lý ra hoa, tăng đậu trái
– Sầu riêng thường trổ hoa sau khi trải qua một thời kỳ khô hay mát, do đó việc xiết nước, che phủ giữ gốc khô ráo trong mùa mưa (tháng 8-9 dl) để giúp cây ra hoa trước tháng 12 dl hằng năm trong điều kiện ĐBSCL cần được chú ý nghiên cứu.
– Hasan Mad và M.Z. Karim (1987) đã sử dụng Paclobutrazol với liều lượng 5-10 g pha trong 2 lít nước tưới cho mỗi gốc để giúp cây ra hoa.
– Để tăng tỷ lệ đậu trái, có thể (1): cung cấp phấn bằng thụ phấn nhân tạo bổ sung, (2): bón lân và kali để tăng tỷ lệ thụ phấn, (3): hạn chế dùng thuốc sâu để côn trùng dễ hoạt động và (4) :phun KNO3 để tăng tỷ lệ đậu trái.
5.3.8. Tạo hình và cắt tỉa
– Việc tỉa cành tạo tán cần làm sớm sau khi trồng và tiếp tục làm hàng năm trong suốt chu kỳ sinh trưởng của cây. Mục đích chính của việc cắt tỉa là tạo ra một cây với những cành khỏe mạnh, mọc ở vị trí tốt để cây có thể mang được nhiều trái mà không bị gãy. Tuy nhiên, việc cắt tỉa cũng có thể gây hại cho cây nếu thực hiện quá nhiều, do việc loại bỏ những diện tích quang hợp (lá) và lượng carbohydrate dự trữ của cây, làm giảm sinh trưởng của rễ và chồi đưa đến giảm năng suất sớm. Do đó, việc tỉa cành cần làm sớm khi cành còn nhỏ để giữ cho lượng carbohydrate trong cây không giảm nghiêm trọng, giúp cây thông thoáng, giảm sâu bệnh. Mặt khác, việc loại bỏ các cành đã lớn sẽ kích thích các cành không cho trái phát triển (cành vượt), thường mọc ra gần chỗ cắt.
– Cây sầu riêng trồng bằng phương pháp nhân giống vô tính thường cho nhiều nhánh mọc dầy gần mặt đất, do đó cần tạo hình cho cây trong những năm đầu. Ngay sau khi trồng lưu ý chọn giữ một thân chính mọc thẳng. Sau khi các cành bên mọc ra, chọn giữ lại một số cành tốt làm giàn, loại bỏ các cành còn lại. Nên chọn các cành hợp với trục thân chính một góc khoảng 45-900. Trong thời gian cây tiếp tục phát triển, các cành giàn ban đầu cũng tiếp tục được chọn lại và loại bỏ các cành mới mọc xen kẻ giữa các cành giàn.
– Tỉa bỏ những cành mọc thấp hơn 1m tính từ mặt đất để giảm bớt tác hại của bệnh chảy mủ gốc. Các cành mọc khít nhau cũng cần loại bỏ. Tỉa bỏ những cành sườn nhỏ yếu mọc ra từ những cành lớn bên trong tán, những cành mọc thẳng đứng, để giúp cây được thoáng, thụ phấn dễ dàng và trái phát triển tốt hơn. Thường xuyên loại bỏ những nhánh sâu bệnh, khô chết và giập gãy.
– Một số nông dân có kinh nghiệm trồng sầu riêng dùng phương pháp uốn cong các cành giàn (nhánh cấp 1) thành góc 90-120o độ để tăng năng suất sau này.
3.3.9. Sâu bệnh
THỐI GỐC THỐI TRÁI VÀ CHÁY LÁ
– Do nấm Phytophthora palmivora gây ra. Đây là một bệnh quan trọng trên sầu riêng. Triệu chứng đầu tiên của bệnh thối gốc là có nhựa màu đỏ nâu nhạt ở vùng gốc thân. Mô vùng vỏ có màu hồng sáng với những đốm màu tím và những phần bị nhiễm bệnh có màu nâu sậm, viền gợn sóng. Bệnh lan dần đến bo mạch. Sự chảy nhựa và mất máu vỏ lan ra chậm chung quanh thân cho đến sau một tháng toàn bộ đường kính thân bị khoanh tròn. Trước đó những chồi tận cùng rụng lá và chết ngọn, các nhánh khác cũng rụng lá cho đến khi cây chết.
– Nếu bệnh xuất hiện trên lá, trước tiên là những vết bệnh nhỏ nhũn nước và mất màu. Sau đó vết bệnh lan rộng, liên kết với nhau và bị hoại thư. Lá bệnh bị rụng sớm. Trường hợp nghiệm trọng, toàn bộ lá bị rụng làm cây chết.
– Bệnh còn tấn công trên trái gây thối trái. Triệu chứng là những vết ẩm ướt, đổi dần sang màu nâu và đen. Trong điều kiện ẩm độ cao, sẽ có những mãng sợi nấm và túi bào tử màu trắng thành lập trên vết bệnh đã bị hoại thư. Bệnh có thể lan rộng làm thối cả hạt và thịt trái bên trong.
– Ẩm độ cao (sương mù, mưa dầm) và trồng dày là điều kiện tốt cho bệnh tấn công và lây lan.
– Cách phòng trị: trồng cây với khoảng cách hợp lý, cắt tỉa những nhánh mọc gần mặt đất. Thoát nước trong vườn tốt. Làm cỏ, loại bỏ dư thừa thực vật chung quanh gốc để hạn chế ẩm độ cao. Khử trùng đất, khử hột trước khi gieo bằng các loại thuốc gốc đồng. Phun hoặc tưới bằng Ridomil 25 WP, Aliette 80 WP, Curzate M8 (1-2 lần), tăng cường bón thên phân lân, kali và kháng bệnh (hiện nay chỉ có ở Mã Lai là có gốc kháng bệnh Phytophthora).
THỐI RỄ
– Do nấm Pythium complectens gây ra. Nấm tấn công vào các rễ nhánh trước khi đến rễ cái, làm tổn thương mô non ở đỉnh rễ. Các nhánh thân trên mặt đất chết dần. Có những chồi mới mọc ra ở phía dưới phần nhánh chết và cây chết đột ngột.
– Cách phòng trị: loại bỏ bộ phận nhiễm bệnh và đốt. Khử đất bằng các loại thuốc gốc đồng trước khi gieo trồng cây con. Phun hoặc tưới Rovral 50 WP (0,3%), Mancozeb 80 BHN (0,2%), Curzate M8 75 WP (0,25%).
BỆNH NẤM HỒNG HAY MỐC HỒNG
– Do nấm Corticium salmonicolar gây ra. Nấm tạo những mãng màu hồng trên vỏ cành, đôi khi thấy có các gai màu hồng phát triển từ các vết nứt trên vỏ thân, cành. Cành nhiễm bệnh nặng sẽ khô chết. Bệnh thường xuất hiện ở cháng ba của cây, trong những vườn trồng dày (tán rậm rạp), vào các tháng mưa dầm (tháng 8-10 dl) trên những cây >6 năm tuổi.
– Cách phòng trị: cắt tỉa cành tạo cho cây được thoáng, cắt bỏ những cành bệnh. Phun Nustar 40 EC (0,05%), Validacin 5 SC (0,3-0,5%), Score 250 EC (0,25%).
BỆNH THÁN THƯ
– Do nấm Colletotrichuum gloeoesporioides gây ra. Bệnh phát triển nhiều trên lá, tạo những đốm bệnh lõm, khô từ bìa hay chóp lá lan vào. Bệnh xuất hiện và lây lan nặng trên cây con, vườn ươm, nhất là vào đầu mùa mưa (4-6 dl) và các tháng có sương (12-2 dl).
– Cách phòng trị: cắt bỏ các lá bị bệnh, phun các loại thuốc Dithane M-45 (Mancozeb 80 BHN, Manzate 80 WP, Pencozeb 80 WP), Benomyl (Benlate 50 WP, Fundazol 50 WP), Copper-B 65 BHN, Antracol 70 WP (Propineb) để phòng và trị.
– Ngoài ra, sầu riêng còn bị các loại bệnh đốm nâu, đốm đen trên lá gây ra bởi các loại nấm như homostegia durionis và Phyllosticta durionis. Cách phòng trị giống như trị bệnh thán thư, mốc hồng.
SÂU ĐỤC CÀNH
– Ấu trùng đục vào bên trong cành làm chết khô.
– Cách phòng trị :tiêm các loại thuốc trừ sâu hoặc xăng vào lỗ đục của sâu. Dùng móc sắt để bắt sâu. Cắt bỏ những cành bị khô chết. Phun Servin, Trebon nồng độ 0,2% vừa trước và sau khi cây ra đọt non.
SÂU ĐỤC TRÁI (Dichocrocis punctiferalis)
– Sâu có màu xanh nhạt, lưng màu hồng nhạt với những đốm to, thường đục vào bên trong trái, đùn phân và mạt vỏ ra ngoài.
– Cách phòng trị: vệ sinh vườn, dọn sạch các dư thừa thực vật trong vườn. Phun các loại thuốc trừ sâu như Cymbus 50 EC, Karate 2,5 EC Decis 2,5 ND, Fenbis 2,5 EC, Baythroid 5 SL nồng độ 0,1-0,2 % ở giai đoạn trái đáng phát triển, phun định kỳ 10-15 ngày/lần
6. THU HOẠCH TỒN TRỮ
– Nếu trồng bằng cây chiết hay ghép thì thời gian từ trồng đến thu hoạch trung bình là 4 năm. Từ khi trổ hoa đến thu hoạch mất trung bình khoảng 4 tháng. Ở ĐBSCL thời gian thu hoạch sầu riêng là từ tháng 4-6 dương lịch. Khi cây đã lớn, thấy da răn nứt là sắp có trái. Thường có 20-70 trái trên cây, nếu trồng tốt có thể 200-500 trái/cây mỗi năm. Thời gian cho trái có thể đến 60 năm.
– Trái già chín, 2/3 rụng vào ban đêm và 1/3 rụng vào ban ngày. Trái được xác định là chín khi dùng que cứng hay tay gõ vào gai trái nghe được tiếng vang rỗng và có mùi thơm. Trái chín còn được xác định bởi việc chọc dao nhọn vào thịt để ngửi mùi thơm. Một số giống sầu riêng có thể thu hoạch trước trên cây (như giống sầu riêng Sửa hột lép) ở thời điểm gõ vào trái có tiếng vang rỗng hay cắt cuống trái nếm có vịt ngọt. Vài ngày sau khi hái trái sẽ chín, nếu để rụng thì trái đã quá chín phẩm chất giảm.
– Trái sầu riêng có thể bị hư, sượng, lép múi do bón phân không hợp lý (dư đạm, bón KCL, thiếu S) hoặc do sâu đục thân, do thối trái.
– Để giảm thiệt hại về phẩm chất trái (do trái bị rụng), nông dân dùng giỏ lưới bao trái và buộc vào cành (nhất là trái trên cao) để khi rụng trái không bị giập.
Trái đã chín không nên giữ quá 3 ngày vì thịt trái bệu ra, có vị đắng. Tuy nhiên, có thể bảo quản trái trong nhiệt độ 15oC được 3 tuần. Việc dú trái cũng được áp dụng bằng cách để trái trên đệm, đắp chiếu khoảng 2-3 ngày thì chín.
Nguồn: giongcaytrong.com